• 1-bat buoc chuyen giao.jpg
  • 2-technology transfer.jpg
  • 3-tpqt.jpg
  • 4-huong dan mon tpqt.jpg
  • 5-nhap mon tdst.jpg
  • 6-giai thich phap luat.jpg
  • 7-giao trinh shtt.jpg
  • 8-giao trinh tpqt-1.jpg
  • giao trinh 9-tpqt2.jpg

Pháp luật sở hữu trí tuệ

Chủ nhật, 27 Tháng 4 2014 02:14
Share on Facebook

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO TỚI PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM

Ths. Lê Thị Nam Giang

 

1. Đặt vấn đề

1.1. Cam kết của Việt Nam về sở hữu trí tuệ

            Khi gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đưa ra bốn cam kết chính về sở hữu trí tuệ,:

            Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cam kết sẽ tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết nhằm tuân thủ đầy đủ tất cả các quy định của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ từ ngày gia nhập WTO mà không viện dẫn đến bất kỳ thời hạn chuyển tiếp nào.[1]

            Thứ hai, Chính phủ Việt Nam cam kết ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp yêu cầu các cơ quan của Chính phủ chỉ sử dụng các phần mềm máy tính hợp pháp và không vi phạm quyền tác giả của những phần mềm này, quy định việc mua và quản lý tất cả các phần mềm do các cơ quan Chính phủ sử dụng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc các nhà cung cấp truyền hình cáp chỉ được cung cấp các chương trình đã có phép tới khách hàng của họ.[2]

            Thứ ba, ban hành văn bản pháp luật quy định tất cả các hành vi giả mạo nhãn hiệu và sao chép lậu với quy mô thương mại đều có thể bị truy tố hình sự và các cơ quan có thẩm quyền có thể tịch thu và tiêu hủy trong các vụ án hình sự.[3]

            Thứ tư, tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm phát sóng, bản ghi âm, ghi hình đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan.[4]

 

1.2. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (sau đây gọi tắt là Hiệp định TRIPS) chính thức được ký kết vào 15/4/1994 và có hiệu lực 1/1/1995. Cho đến thời điểm hiện nay, Hiệp định TRIPS được coi là Hiệp định đầy đủ và toàn diện nhất về sở hữu trí tuệ vì TRIPS đã khẳng định lại các đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ bởi các điều ước quốc tế trước đó đồng thời mở rộng sự bảo hộ đối với các đối tượng mới với những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu mà các nước thành viên phải đảm bảo trong pháp luật của mình. Mặc dù không phải là Điều ước quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ, nhưng Hiệp định TRIPS là Điều ước quốc tế đầu tiên quy định các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và qui định một hệ thống giải quyết tranh chấp “gắn với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và cơ chế rà soát chính sách thương mại”.[5] Điều đặc biệt quan trọng là bên cạnh Hiệp định WTO, TRIPS phải được tất cả các nước thành viên WTO tuân thủ và thi hành. Các nước thành viên WTO muốn được hưởng những quyền lợi từ các nước thành viên khác thì trước hết phải thực hiện các nghĩa vụ của TRIPS.[6] Chính vì vậy Hiệp định TRIPS đã tác động rất lớn đến pháp luật sở hữu trí tuệ các nước, đã mang lại những thay đổi căn bản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, được coi là những tiêu chuẩn thế giới mới trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

 

2. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO tới pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.

     

            Ngày 1/1/1995 Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO. Một trong những điều kiện cho việc gia nhập thành công WTO là phải đáp ứng các quy định rất cao và tương đối toàn diện của WTO về sở hữu trí tuệ được quy định trong Hiệp định TRIPS. Chính vì vậy, chúng ta đã xây dựng một chương trình đầy tham vọng về sở hữu trí tuệ mà mục tiêu tổng quát là làm cho hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam phù hợp hoàn toàn với Hiệp định TRIPS.

            Trong chương trình này vấn đề xây dựng hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam mới được triển khai từ những năm 80 của thế kỷ XX , do đó tại thời điểm Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO, pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam còn rất nhiều điểm chưa đáp ứng được các quy định của WTO, cả góc độ “chưa đầy đủ” đến “thiếu hiệu quả” .[7] Cụ thể, các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ còn tản mạn, thiếu đồng bộ và mới dừng lại ở các văn bản dưới luật. Về đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta mới chỉ bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa. Riêng về tên gọi xuất xứ hàng hóa, do chưa có văn bản hướng dẫn nên trên thực tế việc bảo hộ đối tượng này chưa được triển khai. So với yêu cầu của Hiệp định Trips, chúng ta chưa bảo hộ chỉ dẫn địa lý (chúng ta mới chỉ bảo hộ một dạng của chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hóa), thiết kế bố trí mạch tích hợp, giống cây trồng, thông tin bí mật, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp. Đối với nhãn hiệu hàng hóa, chúng ta chưa bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, nhãn hiệu tập thể, nhãn chứng nhận… Tiêu chuẩn bảo hộ đối với từng đối tượng sở hữu trí tuệ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của TRIPS. Ví dụ, thời hạn bảo hộ sáng chế theo Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là 15 năm tính từ ngày ưu tiên.[8]   

           

            Để đáp ứng các yêu cầu của WTO về sở hữu trí tuệ, từ thời điểm tháng 1 năm 1995 đến nay, hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đã có một bước phát triển vượt bậc mà bước khởi đầu quan trọng là việc ban hành Bộ luật dân sự 1995 trong đó dành phần VI quy định về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Với sự ra đời của Bộ luật dân sự chúng ta đã hoàn thành một bước cơ bản của quá trình pháp điển hóa các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ, đưa các quy định cơ bản của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ vào một văn bản pháp luật có hiệu lực cao. Các nội dung của Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả về cơ bản vẫn được giữ nguyên. Trong thời điểm này chúng ta chưa có điều kiện để mở rộng sự bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ mơi. Tuy nhiên, có một số thay đổi quan trọng trong việc bảo hộ theo hướng nhằm làm cho hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam phù hợp hơn với các tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù chưa phải là thành viên của Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật nhưng quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự 1995 về cơ bản được xây dựng dựa trên quy định của Berne và của Hiệp định Trips có tính đến điều kiện thực tiễn của Việt nam. Bộ luật dân sự đã quy định một cách tách bạch quyền của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, quyền của tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, quy định một cách tách bạch các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Đối với lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Bộ luật dân sự quy định lại tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa... Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mới và cũng là lĩnh vực rất phức tạp, hơn nữa với thói quen của các nhà lập pháp Việt Nam, các quy định của Bộ luật dân sự chỉ dừng lại ở mức độ là những nguyên tắc chung, cần phải cụ thể hóa trong các văn bản dưới luật.

            Chính vì vậy, ngày 29/11/1996 Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật dân sự. Cụ thể, trong lĩnh vực quyền tác giả, ngày 29/11/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/CP hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự. Ngày 10/5/2001 Bộ văn hóa thông tin ban hành Thông tư số 27 hướng dẫn thi hành Nghị định trên. Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, ngày 24/10/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp. Nghị định này một mặt cụ thể hóa các quy định của Bộ luật dân sự về sở hữu công nghiệp, mặt khác quy định những thủ tục, trình tự hành chính như thủ tục đăng ký quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp theo hướng đơn giản hóa tạo thuận lợi hơn cho người nộp đơn. Ngày 31/12/1996, Bộ KHCNMT đã ban hành Thông tư số 3055/TT- SHCN hướng dẫn thi hành thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại Bộ luật dân sự và Nghị định 63/CP.

           

            Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ngày 16/3/1999 Chính phủ ban hành Nghị định 12/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Đây được coi là một bước phát triển đột phá trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp vì lần đầu tiên chúng ta đã ban hành một văn bản về xử phạt hành chính trong lĩnh vực này. Ngày 3/5/2000 Bộ KHCNMT đã ban hành Thông tư 825/TT hướng dẫn thi hành nghị định 12/CP, thông tư này được sửa đổi bởi Thông tư 49 ngày14/9/2001. Trong lĩnh vực quyền tác giả ngày 26.6.2001 Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thông tin.

           

            Ngày 13/7/2000 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết. Để đáp ứng các quy định của chương 2 Hiệp định này[9] và cũng là các yêu cầu của Hiệp định TRIPS,[10] ngày 3/10/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định 54/2000/NĐ- CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Đồng thời trong thời gian này, Nghị định 06 sửa đổi Nghị định 63/CP cũng mở rộng việc bảo hộ tại Việt Nam đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, nhãn hiệu liên kết. Quyền đối với giống cây trồng mới được bảo hộ theo Nghị định 13/CP ngày 20/4/2001. Ngày 02/5/2003 Chính phủ ban hành Nghị định 42/CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Với sự ra đời của các Nghị định trên, các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam đã được mở rộng và được coi là đã đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TRIPS về các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

           

            Nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ cũng như yêu cầu của Hiệp định TRIPS về các biện pháp kiểm soát tại biên giới Luật Hải quan được ban hành ngày 12/7/2001 đã dành riêng một mục với 3 điều khoản quy định về việc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, về nguyên tắc chủ sở hữu quyền SHTT đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam có quyền đề nghị cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu mà chủ sở hữu có căn cứ cho rằng có sự vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ngày 31/12/2001 Chính phủ ban hành Nghị định 101/CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan. Điều 14 nghị định này quy định về thủ tục tạm dừng làm thủ tục hải quan trong trường hợp có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ngày 29/12/1994 Bộ tài chính, Bộ khoa học công nghệ đã ban hành Thông tư liên tịch số 129 hướng dẫn thi hành các biện pháp kiểm soát biên giới về sở hữu công nghiệp đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

           

            Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp về quyền tác giả tại TAND, ngày 5.12.2001 TANDTC, VKSNDTC, BVHTT đã ban hành Thông tư liên tịch hướng số 01 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại tòa án nhân dân. Đối với lĩnh vực sở hữu công nghiệp, một thông tư tương tự cũng được soạn thảo nhưng qua rất nhiều lần dự thảo mà cuối cùng vẩn không được ban hành. Thời điểm này Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn hiệu lực nhưng đã bộc lộ rất nhiều điểm bất cập, không phù hợp với thực tiễn. Năm 2004 Bộ luật tố tụng dân sự đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, các tranh chấp sở hữu trí tuệ nói riêng.

 

Việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua các chế tài hình sự đã được ghi nhận tại BLHS 1985. Điều 126 BLHS 1985 quy định tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh với mức phạt là cảnh cáo, phạt tiền đến 5 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm. Điều 167 BLHS 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả với mức phạt là phạt tù ở khung hình phạt thấp nhất là từ 1 đến 7 năm; cao nhất là từ 12-20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Trước yêu cầu của Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, của Hiệp định TRIPS về việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ thông qua thủ tục tố tụng hình sự, trước tình hình xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng tăng tại Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật hình sự, BLHS năm 1999 đã dành 6 điều để quy định các tội danh liên quan đến sở hữu trí tuệ.[11] Với Điều 170 và 171, lần đầu tiên BLHS 1999 đã quy định các tội danh về quyền SHCN và thể hiện quan điểm mới khi quy định về hình phạt: hình phạt chính được áp dụng là hình phạt tiền bên cạnh hình phạt tù. Tội sản xuất buôn bán hàng giả đã được tách ra thành 3 tội danh độc lập. So sánh với Điều 167 của BLHS 1985 thì các Điều 156, 157, 158 của BLHS 1999 đã quy định khung hình phạt cụ thể hơn, thuận lợi hơn cho việc áp dụng trên thực tế. Các hình phạt cũng được mở rộng hơn. Bên cạnh 2 hình thức chế tài chính là phạt tiền và phạt tù còn áp dụng các hình thức phạt bổ sung như tịch thu 1 phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm.

            Bên cạnh đó, trong thời điểm trước năm 2005, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn được quy định trong hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác như: Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính; Luật thương mại 1997; Luật khuyến khích đầu tư trong nước; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000; Luật khoa học và công nghệ năm 2000…

            Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam và đã làm cho hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về tính “đầy đủ” của WTO. Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Bộ luật dân sự và hơn 40 văn bản quy phạm pháp luật khác nhau đã làm cho pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ còn tản mạn, thiếu đồng bộ, hiệu lực thi hành không cao. Đơn cử như đối với đối tượng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo Nghị định 54/CP nhưng nếu bảo hộ dưới dạng tên gọi xuất xứ hàng hóa thì sẽ được bảo hộ theo BLDS, cơ chế bảo hộ theo hai văn bản pháp luật này là khác nhau. Ngoài ra, các quy định pháp luật điều chỉnh sở hữu trí tuệ thiên về khía cạnh dân sự mà chưa chú trọng đúng mức tới đặc thù kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ của các quan hệ sở hữu trí tuệ.

           

            Thực tế đó đòi hỏi chúng ta chúng ta cần phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ. Bộ luật dân sự năm 1995 đã được sửa đổi, các quy định về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ trong phần thứ VI đã được tách ra, chỉ giư lại những nguyên tắc dân sự cơ bản của quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời ngày 29/11/2005 Chính phủ đã ban hành Luật sở hữu trí tuệ. Hai văn bản này đã tạo thành một hệ thống các quy định tương đối hoàn chỉnh và thống nhất về quyền sở hữu trí tuệ. Trong tháng 9 năm 2006 Chính phủ Việt Nam đã ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về sở hữu trí tuệ và Luật sở hữu trí tuệ. Cụ thể ngày 21/9/2006 Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 về quyền tác giả và quyền liên quan. Ngày 22/9/2006 Chính phủ ban hành Nghị định 103/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 về sở hữu công nghiệp; Nghị định 105/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Nghị định 106/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Ngày 14/2/2007 chúng ta đã ban hành thông tư 01 hướng dẫn thi hành Nghị định 103/CP trong đó quy định chi tiết về thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, thủ tục bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, đại diện SHCN…, thông tư 01 hướng dẫn việc cấp, thu hồi Thẻ giám định viên SHCN và giấy chứng nhận tổ chức đủ đđiều kiện hoạt đđộng giám đđịnh SHCN.

            Cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ, trong thới gian này Việt Nam cũng gia nhập một loạt các Điều ước quốc tế quan trọng về sở hữu trí tuệ theo yêu cầu của Hiệp định Trips như Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật,[12] Công ước về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng;[13] Công ước về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép bản ghi âm của họ,[14] Công ước về sự phổ biến các chương trình mang tín hiệu truyền qua vệ tinh,[15] Nghị định thư liên quan đến thỏa ước MADRID[16]

3. Kết luận

3.1. Phân tích trên cho thấy việc Việt Nam gia nhập WTO đã tác động một cách một cách sâu rộng đến hệ thống quy phạm pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống quy phạm pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam diễn ra trong cả một quá trình, có những bước chuyển tiếp cho phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Tuy nhiên cần nhấn mạnh, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ không chỉ xuất phát từ những yêu cầu của WTO mà còn xuất phát từ yêu cầu nội tại của đất nước.

3.2. Với việc sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005, với việc ban hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cho tới thời điểm hiện nay có thể khẳng định, pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đã hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về tính “đầy đủ” của WTO và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đáp ứng yêu cầu của WTO về tính “hiệu quả”. Tuy nhiên, chúng ta vẫn tiếp tục phải xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam, chúng ta cần ban hành các văn bản quy định các cơ quan của Chính phủ chỉ sử dụng các phần mềm máy tính hợp pháp và không vi phạm quyền tác giả của những phần mềm này, quy định việc mua và quản lý tất cả các phần mềm do các cơ quan Chính phủ sử dụng. Chúng ta cũng cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc các nhà cung cấp truyền hình cáp chỉ được cung cấp các chương trình đã có phép tới khách hàng của họ. Ngoài ra, chúng ta cũng cần sớm ban hành các thông tư quy định về bảo hộ một số đối tượng đặc thù như phần mềm máy tính…

3.3. Với các cam kết của Chính phủ Việt Nam về sở hữu trí tuệ, thách thức lớn nhất đối với chúng ta không còn là vấn đề lập pháp mà là vấn đề thực thi pháp luật. Tính hiệu quả của hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không chỉ đòi hỏi ở khung pháp lý mà còn đòi hỏi rất nhiều ở hệ thống cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, ở ý thức và nỗ lực của chủ sở hữu trí tuệ và toàn xã hội. Chính vì vậy, chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc thực thi các quy định của pháp luật trên thực tế, nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi quyền, đặc biệt nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ tại tòa án, nâng cao ý thức tôn trọng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

 

Phụ lục: Bản so sánh tóm tắt các quy định của Hiệp định Trips và quy định của pháp luật Việt Nam[17]

 

 

 

Quy định của Trips

Quy định của PLVN vào thời điểm nộp đơn gia nhập WTO[18]

Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam

Quy định của pháp luật

Đáp ứng

Chưa đáp ứng

Mỗi thành viên phải dành cho công dân của các thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử của thành viên đó đối với công dân nước mình trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ.

Chưa quy định

Được quy định tại trong Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế và Điều 774, 775 Bộ luật dân sự

X

 

Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các thành viên khác

Chưa quy định

Được quy định trong Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.

X

 

Các nước thành viên phải tuân thủ các quy định từ Điều 1- Điều 21 và phụ lục của Công ước Berne 1971, trừ Điều 6bis.

Về cơ bản đã quy định, tuy nhiên các quy định rất chung chung, chưa có điều khoản quy định tách bạch giữa quyền nhân thân và quyền tài sản, chưa tách bạch   quyền của tác giả với chủ sở hữu tác phẩm

Việt Nam đã là thành viên của Công ước Berne do đó các quy định trên đã được nội luật hoá trong Luật sở hữu trí tuệ 2005 và Nghị định 100/CP.

X

 

Bảo hộ chương trình máy tính như tác phẩm văn học theo Công ước Berne 1971, và bảo hộ các bộ sưu tập dữ liệu hoặc tư liệu mà việc tuyển chọn hay sắp xếp nội dung chính là thành quả của hoạt động trí tuệ.

 

Đã quy định về bảo hộ phần mềm máy tính, tuy nhiên trên thực tế vấn đề trên chưa được quy định cụ thể.

Điều 14 khoản 1 Điều 22 Luật sở hữu trí tuệ

X

 

Đối với chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh, phải dành cho tác giả hoặc người thừa kế hợp pháp của họ quyền cho phép hoặc cấm cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm nhằm mục đích thương mại

Chưa được quy định cụ thể.

Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ, Điều 23 Nghị định 100/CP.

X

 

Thời hạn bảo hộ: tác phẩm không được tính trên cơ sở đời người tối thiểu là 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được tạo ra nếu tác phẩm không được công bố hợp pháp trong 50 năm kể từ ngày tạo ra. (Không áp dụng đối với tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng).

 

Không có quy định về cách tính thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm không tính trên cơ sở đời người của tác giả

Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ; Điều 26 Nghị định 100/CP

X

 

Các quy định về bảo hộ quyền liên quan tại Điều 14 của Hiệp định Trips

 

Được quy định tại phần thứ 2 Luật sở hữu trí tuệ và Nghị định 100/CP

X

 

Tuân thủ từ Điều 1 đến Điều 12 và Điều 19 Công ước Paris 1883 về sở hữu công nghiệp

Việt Nam đã là thành viên Công ước này từ năm 1949 nên các nội dung trên đã được nội luật hoá trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên còn một số điểm chưa được quy định rõ ràng hoặc chưa đáp ứng như chúng ta chưa bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, tên thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp.

Được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành

X

 

Nhãn hiệu hàng hóa

bảo hộ "bất kỳ một dấu hiệu nào, hoặc sự kết hợp các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác có khả năng cấu tạo nên nhãn hiệu hàng hóa."

           

 

 

 

 

 

-Thời hạn bảo hộ cho lần đăng ký đầu tiên và mỗi lần gia hạn đăng ký không được dưới 7 năm. việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa được gia hạn một cách không hạn chế.

 

- Chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa có độc quyền ngăn cản tất cả các bên thứ ba sử dụng mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa trong quá trình thương mại các dấu hiệu trùng hoặc tương tự cho các hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký để sử dụng, nếu việc sử dụng đó có thể dẫn đến khả năng nhầm lẫn.

- Tuân thủ điều 6bis Công ước Paris cho nhãn hiệu dịch vụ

Chưa có điều kiện bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thời hạn bảo hộ cho lần đăng ký đầu tiên và mỗi lần gia hạn đăng ký là 10 năm.

 

 

 

Chủ văn bằng bảo hộ có quyền sở hữu, có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng cho chủ thể khác.

 

.

 

 

 

- Chưa quy định

 

 

 

 

Đã mở   rộng nhãn hiệu được bảo hộ đến nhãn hiệu nổi tiếng, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể,nhãn hiệu liên kết. Tuy nhiên chúng ta chưa bảo hộ các dấu hiệu có khả năng phân biệt bằng thính giác, vị giác như nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi vị.

 

Thời hạn bảo hộ cho lần đăng ký đầu tiên và mỗi lần gia hạn đăng ký là 10 năm.

 

 

 

Được quy định tại chương IX Luật sở hữu trí tuệ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ

 

X

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

X

 

 

 

 

 

 

 

 

X

 

 

 

X

 

Sáng chế phải được cấp cho tất cả các sáng chế, bất kể là sản phẩm hay quy trình, trong tất cả các lĩnh vực công nghệ

 

- Tiêu chuẩn sáng chế: mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.

 

 

 

- Thời hạn bảo hộ sáng chế tối thiểu là 20 năm kể từ ngày nộp đơn.

 

 

- Chủ sở hữu sáng chế có độc quyền cấm bên thứ ba thực hiện các hành vi chế tạo, sử dụng, chào bán, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm mà không được phép của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có quyền chuyển nhượng, để thừa kế và ký kết các hợp đồng lixăng.

 

Chưa có quy định cụ thể

 

 

 

- Tiêu chuẩn sáng chế: mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội.

 

- Thời hạn bảo hộ sáng chế là 15 năm kể từ ngày ưu tiên.

 

 

- Chủ văn bằng bảo hộ có quyền sở hữu, có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng cho chủ thể khác.

 

 

 

 

 

 

 

- Tiêu chuẩn sáng chế: mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.

 

- Thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm kể từ ngày nộp đơn.

 

 

 

- Được quy định tại chương IX, X Luật sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn

 

X

 

 

 

 

 

 

X

 

 

 

 

 

 

 

 

X

 

 

 

 

X

 

- Phải bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được tạo ra một cách độc lập mà là mới hoặc nguyên gốc.

- Đối với hàng dệt, các thành viên được bảo hộ thông qua Luật kiểu dáng công nghiệp hoặc Luật bản quyền.

 

 

- Thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp kéo dài ít nhất là 10 năm.

 

 

- Chủ sở hữu có quyền cấm những người khác không được sự đồng ý của chủ sở hữu mà sản xuất, bán hoặc nhập khẩu những sản phẩm mang hoặc thể hiện một kiểu dáng sao chép hoặc cơ bản là một bản sao chép của kiểu dáng đang được bảo hộ, khi các hành vi đó được thực hiện nhằm mục đích thương mại.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

-Văn bằng bảo hộ có hiệu lực 5 năm, được gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm

 

 

-Chủ văn bằng bảo hộ có quyền sở hữu, có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng cho chủ thể khác.

 

Tiêu chuẩn bảo hộ: mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.

 

 

 

 

 

 

Văn bằng bảo hộ có hiệu lực 5 năm, được gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm.

 

 

Được quy định tại chương IX, X Luật sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn

 

 

X

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

X

 

Phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý Các quốc gia thành viên   phải có những biện pháp pháp lý để ngăn ngừa việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để đánh dấu hoặc giới thiệu hàng hóa, gây sự nhầm lẫn về nơi xuất xứ của hàng hóa cho người sử dụng những hàng hóa, sản phẩm đó.

- Ngoài việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý cho các hàng hóa sản phẩm thông thường khác, các thành viên phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với rượu vang và rượu mạnh.

Mới chỉ quy định bảo hộ một dạng của chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hóa

Được quy định tại Bộ luật dân sự luật sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành

 

 

 

 

 

 

X

 

Thiết kế bố trí mạch tích hợp

- Bảo hộ phù hợp với các quy định từ Điều 2-7 (trừ Điều 6 khoản 3), Điều 12 và Điều 16 khoản 3 Hiệp ước IPIC

- Thời hạn bảo hộ tối thiểu là 10 năm hoặc 15 năm

- Trong suốt thời hạn bảo hộ các hành vi như nhập khẩu, bán hoặc phân phối dưới các hình thức khác nhằm mục đích thương mại các thiết kế, bố trí đang được bảo hộ mà không được phép của người nắm giữ quyền đều bị coi là những hành vi bất hợp pháp.

 

Chưa bảo hộ

Được quy định tại Bộ luật dân sự luật sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành

 

X

 

Các thành viên phải bảo hộ thông tin kín.

 

Chưa bảo hộ

Được quy định tại Bộ luật dân sự luật sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành

 

X

 

 

 



[1] Nguồn: báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO đoạn 403.

[2] Nguồn: báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO đoạn 465.

[3] Nguồn: báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO đoạn 471.

[4] Nguồn: Phụ lục: nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam kèm theo Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới của nước CHXHCN Việt Nam.

[5] Tác động của các Hiệp định của WTO đối với các nước đang phát triển, tài liệu của Uy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và Uy ban thương mại quốc gia Thụy Điển, Hà Nội 2005, Tr194

[6] Tại vòng đàm phán Uruguay, một số nước đang phát triển phản đối mạnh mẽ việc hội nhập của các quyền sở hữu trí tuệ vào chính sách thương mại. Tuy nhiên, cuối cùng thì các nước đang phát triển cũng phải chấp nhận vì nhiều lý do khác nhau. Một trong những lý do đó là sự nhượng bộ trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đổi lấy những nhượng bộ từ các nước phát triển về khả năng tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực khác – xem Tác động của các Hiệp định của WTO đối với các nước đang phát triển, tài liệu của Uy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và Uy ban thương mại quốc gia Thụy Điển, Hà Nội 2005, Tr194

[7] Vào thời điểm này, quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ bởi Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả ngày 02/12/1994; Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công ngày11/2/1989, Nghị định 84/HĐBT ngày 20/3/1990; Thông tư số 1134/SC ngày 17/10/1991; Thông tư số 3/NCPL của TANDTC hướng dẫn xét xử các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp.

[8] Xem chi tiết bản so sánh trong phần phụ lục.

[9] Chương 2 của Hiệp định quy định về quyền sở hữu trí tuệ

[10] Quy định của Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ về sở hữu trí tuệ được xây dựng dựa theo các quy định của Hiệp định Trips với một số thay đổi nhỏ cho phù hợp với tình hình thực tiễn của hai nước

[11] Bao gm các điu: Điu 131. Ti xâm phm quyn tác gi; Điu 170 . Ti vi phm các quy đnh v văn bng bo h quyn SHCN; Điu 171. Ti vi phm quyn SHCN; Điu 156.Ti sn xut buôn bán hàng gi. Điu 157. Ti sn xut buôn bán hàng gi là lương thc thc phm, thuc cha bnh, thuc phòng bnh. Điu 158 Ti sn xut buôn bán hàng gi là thc ăn dùng đ chăn nuôi, phân bón, thuc thú y, thuc bo v thc vt, ging cây trng, vt nuôi.

[12] Việt Nam gia nhập năm 2004

[13] Việt Nam gia nhập năm 2007

[14] Việt Nam gia nhập năm 2005

[15] Việt Nam gia nhập năm 2006

[16] Việt Nam gia nhập năm 2006

[17] Do thời gian có hạn, tác giả chỉ so sánh những nội dung cơ bản nhất của Hiệp định Trips và pháp luật Việt Nam liên quan đến nguyên tắc bảo hộ, tiêu chuần bảo hộ tối thiểu đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ. Các quy định liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ không được so sánh ở đây, mặc dù đây là lĩnh vực mà quy định của TRIPS tác động rất mạnh đến pháp luật Việt Nam.

[18] Vào thời điểm này, quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ bởi Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả ngày 02/12/1994; Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công ngày11/2/1989, Nghị định 84/HĐBT ngày 20/3/1990 do đó việc so sánh của tác giả được dựa trên các văn bản pháp luật này.

  Doanh nghiệp liên kết
 
Công ty TNHH Tư vấn & Đào tạo A.G.L
Email: JLIB_HTML_CLOAKING
Hotline: 0988890358
              0938877897
   TƯ VẤN PHÁP LUẬT
 
    Hot line: 093.8877.897
 
Số lượng truy cập
2669280
TodayToday87
YesterdayYesterday451
This WeekThis Week1626
This MonthThis Month6262
All DaysAll Days2669280
Highest 01-12-2015 : 9844